Kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930-03/02/2025)
Lịch sử hàng
nghìn năm của dân tộc ta đã chứng minh rằng, yêu nước và giữ nước, kiên quyết
chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập, chủ quyền và thống nhất đất nước là truyền
thống cực kỳ quý báu của nhân dân ta. Nối tiếp truyền thống đó, từ giữa thế kỷ
XIX, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, không cam chịu thân phận nô lệ, nhân
dân ta đã liên tiếp vùng lên đấu tranh qua các phong trào yêu nước diễn ra liên
tục và mạnh mẽ bằng nhiều con đường với nhiều khuynh hướng khác nhau. Từ con
đường cứu nước của các sĩ phu cho đến các cuộc khởi nghĩa nông dân và con đường
cách mạng tư sản... Mặc dù đã đấu tranh rất kiên cường, đầy tâm huyết và chịu
những hy sinh to lớn, song, do hạn chế lịch sử, nhất là thiếu một đường lối
đúng, các phong trào đó đều không thành công. Lịch sử đòi hỏi phải tìm con
đường mới.
Năm
1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (tức là Bác Hồ muôn vàn kính
yêu của chúng ta) đã ra đi tìm con đường mới cho sự nghiệp cứu nước, đấu tranh
giành độc lập dân tộc. Mang trong mình khát vọng lớn lao, cháy bỏng, Người đã
đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm thấy ở học thuyết cách mạng này con đường cứu
nước đúng đắn - con đường cách mạng vô sản. Sau nhiều năm bôn ba hoạt động ở
nước ngoài, Người đã kiên trì nghiên cứu, học tập, vận dụng sáng tạo và từng
bước truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam, dày công chuẩn bị những điều
kiện cần thiết cho việc thành lập một đảng cách mạng chân chính. Ngày 3/2/1930,
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản họp ở bán đảo Cửu Long, thuộc Hồng Kông
(Trung Quốc), dưới sự chủ trì của Người (lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc), đã quyết định
thống nhất các tổ chức cộng sản ở nước ta thành một Đảng duy nhất, lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một bước ngoặt lịch sử trọng đại, chấm dứt cuộc
khủng hoảng kéo dài về tổ chức và đường lối của cách mạng Việt Nam. Việc Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt
Nam đã trưởng thành và đủ sức gánh vác sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách
mạng. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được thông qua
tại Hội nghị thành lập Đảng đã xác định con đường cơ bản của cách mạng Việt
Nam, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của dân tộc và nguyện vọng tha thiết của nhân
dân.
Sau
khi ra đời, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tin
tưởng tuyệt đối, chỉ trong vòng 15 năm, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, tiến hành ba cao trào cách mạng: Cao
trào cách mạng 1930-1931, với đỉnh cao là phong trào Xô Viết-Nghệ
Tĩnh, Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936-1939) và Cao
trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939-1945), để đến năm 1945,
khi thời cơ cách mạng chín muồi, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn thể
dân tộc Việt Nam làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945
"long trời, lở đất", thành lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào
ngày 2/9/1945.
Ngay sau khi nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, cách mạng đã phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thử thách, cùng một lúc phải đương đầu với "giặc đói, giặc dốt và giặc
ngoại xâm". Trong hoàn cảnh hiểm nghèo đó, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta
vượt qua tình thế "ngàn cân treo sợi tóc", kiên cường bảo vệ và xây
dựng chính quyền non trẻ, đồng thời tích cực chuẩn bị mọi mặt để bước vào cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trên cơ sở đường lối kháng chiến
"toàn dân", "toàn diện", "trường kỳ", "dựa
vào sức mình là chính", phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của toàn
dân tộc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân lần lượt đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch xâm
lược của kẻ thù, đặc biệt là thắng lợi trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 với
đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu", buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt
cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Từ năm 1954 đến
năm 1975, đất nước bị chia cắt làm hai miền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, miền
Bắc vừa nỗ lực xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa dốc sức làm tròn nghĩa vụ của hậu
phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Nhân dân miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh
kiên cường để giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Với tinh thần
"thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không
chịu làm nô lệ", "không có gì quý hơn độc lập, tự do"; trên cơ
sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc
Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu giang sơn về một mối vào ngày 30/4/1975.
Thắng lợi đó "mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những
trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một
chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn
và có tính thời đại sâu sắc"
Trong lúc phải
khẩn trương khắc phục những hậu quả vô cùng nặng nề do chiến tranh để lại, nhân
dân Việt Nam lại tiếp tục phải đương đầu với những cuộc chiến tranh mới. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta vừa tập trung khôi phục kinh tế-xã hội,
vừa chiến đấu bảo vệ biên giới, bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng
của Tổ quốc; đồng thời, làm tròn nghĩa vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia thoát
khỏi hoạ diệt chủng và tiến hành công cuộc hồi sinh đất nước.
Trước
những yêu cầu mới của sự phát triển đất nước, để khắc phục những bất cập của cơ
chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp dẫn tới sự khủng hoảng kinh tế-xã
hội những năm sau chiến tranh, trên cơ sở tổng kết sáng kiến, sáng tạo trong
thực tiễn của nhân dân, Đảng ta đã tiến hành đổi mới từng phần trong nông
nghiệp, công nghiệp và trước hết là đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội
và từng bước hình thành Đường lối đổi mới đất nước. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), trên cơ sở phân tích sâu
sắc tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm thực tiễn, với
tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật", đã đề ra Đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh
dấu bước ngoặt quan trọng trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Đường lối đổi mới ra đời đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn lịch sử, thể
hiện bản lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và mở ra
một thời kỳ mới cho sự phát triển của đất nước.
Sau Đại hội VI,
Đảng đã từng bước hoàn thiện, cụ thể hoá đường lối đổi mới mà nội dung cơ bản,
cốt lõi được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh bổ
sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện quan trọng của Đảng qua các kỳ Đại
hội. Những năm 90 của thế kỷ XX, vượt qua thách thức từ sự sụp đổ của mô hình
chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu, Đảng Cộng sản Việt
Nam, dân tộc Việt Nam đã kiên định, tiếp tục vững bước và sáng tạo trên con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể và đặc điểm của Việt
Nam. Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ khóa VI đến khóa XII đã ban hành nhiều
nghị quyết về những vấn đề cơ bản, hệ trọng của Đảng và sự phát triển của đất
nước. Quốc hội thể chế hóa bằng hệ thống pháp luật và các đạo luật, tạo cơ sở
pháp lý ngày càng đồng bộ và phù hợp cho quá trình đổi mới. Chính phủ cụ thể
hoá thành các cơ chế, chính sách và giải pháp cụ thể để quản lý, quản trị, điều
hành công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Trong việc xác định, đề ra
đường lối đổi mới, Đảng ta luôn luôn nắm vững và vận dụng sáng tạo những nguyên
lý, quan điểm cơ bản, phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm thực tiễn ở trong nước và quốc tế, xử lý
tốt các mối quan hệ cơ bản như: Phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa "của
dân, do dân và vì dân"; kết hợp chặt chẽ đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị; giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; kết
hợp có hiệu quả giữa phát triển kinh tế-xã hội với quốc phòng-an ninh, giữa xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc; giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập
quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ... Không phiến
diện, cực đoan, duy ý chí, từ cực này nhảy sang cực kia.
Thực tế, sau gần
40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ một đất nước nghèo nàn, có cơ sở vật
chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến
nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung
bình; văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được cải thiện; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có bước
đột phá; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã
hội ổn định, quốc phòng-an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy
tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Với những thành
tựu to lớn đã đạt được, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng, đất nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.
Thực
tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 95 năm qua đã chứng tỏ,
sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam. Mặt
khác, thông qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta được tôi luyện và ngày
càng trưởng thành, xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng và sự
tin cậy, kỳ vọng của nhân dân. Thực tiễn đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam,
không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ
bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua
mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Và cũng chính trong quá trình đó, Đảng ta đã tích lũy
và đúc rút được nhiều bài học quý báu, hun đúc nên những truyền thống
vẻ vang mà hôm nay chúng ta có trách nhiệm phải ra sức giữ gìn và
phát huy. Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích
của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường
lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo
kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu
quả các nhiệm vụ cách mạng. Đó là truyền thống gắn bó máu
thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và
mục tiêu phấn đấu. Đó là truyền thống đoàn kết thống nhất,
có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân
chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí. Đó là truyền
thống đoàn kết quốc tế thuỷ chung, trong sáng dựa trên những nguyên
tắc và mục tiêu cao cả.
Nhìn lại chặng
đường 95 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Đảng Cộng sản Việt Nam và
trong thời khắc thiêng liêng này, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với
công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài của Đảng ta và
dân tộc ta, Người thày vĩ đại của cách mạng Việt Nam - Anh hùng giải phóng dân
tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Người đã cống hiến trọn đời mình cho dân, cho
nước, dẫn dắt Đảng ta, nhân dân ta làm nên những thắng lợi vẻ vang và làm
"rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta". Đất nước
càng phát triển, nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc, càng chứng tỏ, tư
tưởng, sự nghiệp, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản vô
giá, là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc ta vững bước đi tới tương lai.
Chúng
ta mãi mãi ghi nhớ công ơn to lớn của các vị lãnh đạo tiền bối, của hàng triệu
anh hùng, liệt sĩ, những người con ưu tú của dân tộc đã anh dũng hy sinh vì độc
lập, tự do, vì chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì chủ
nghĩa xã hội và vì nghĩa vụ quốc tế cao cả. Chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đối với các bậc lão thành cách mạng, các gia đình liệt sĩ, các Mẹ Việt Nam
anh hùng, các đồng chí thương binh, bệnh binh, các gia đình có công với nước,
cùng toàn thể đồng bào và chiến sĩ cả nước đã anh dũng chiến đấu, hy sinh, lao
động sáng tạo, đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc ta
để chúng ta có một nước Việt Nam hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã
hội như ngày hôm nay.
Kỷ
niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, là một dịp để chúng ta
ôn lại những trang sử hào hùng của Đảng quang vinh, về lịch sử vẻ vang của dân
tộc, về quê hương, đất nước anh hùng. Mừng Đảng quang vinh, mừng xuân Ất Tỵ
2025, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
xã Trực Đại bước vào năm 2025 với khí thế mới, quyết tâm lập nhiều thành tích
chào mừng Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2025-2030 tiến tới Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, góp phần thực hiện thành công con đường
XHCN mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, tự hào và tin tưởng vào thắng
lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước, ra sức rèn luyện phẩm chất cách mạng, nâng
cao tính Đảng, đề cao tinh thần đoàn kết, đổi mới, xây dựng quê hương ngày
càng giàu mạnh, văn minh.
“Mừng Xuân mới, khí thế mới, quyết tâm mới, thắng lợi
mới vững tin bước vào kỷ nguyên mới!”
Công chức Văn hóa - Xã hội